Tên gọi , dịch theo tiếng Anh “ lime” là vôi và “stone” là đá, Nhân dân tại các tỉnh phía Bắc từ xưa đã dùng loại đá nầy để nung thành vôi và sữ dụng trong việc xây dựng và là nguyên liệu chính trong ngành sản xuất xi măng. Đá vôi là một nhóm lớn và là đá trầm tích giàu chất CaCo3 ( trên 50% của lượng tinh khoáng) Các điều kiện tốt nhất đề thành lạp nên gồm có: nước ấm ( từ 18 đến 30 độ C), một độ mặn và độ oxygen vừ phải, độ kiềm pH giửa 8 và 9, độ sâu thích hợp nghĩa là không quá 6000 đến 7000 mét. Sự hiện diện của sinh vật giúp chất vôi CaCo3 kết tủa nhờ vào những phản ứng sinh hóa của chúng. Vật liệu đóng góp để tạo nên đá vôi có nhiều loại, như những mảnh đá vôi khác do sự xâm thực còn sót lại hoặc những xương của các loại động vật và những chất khác như bùn, đất sét, muối và tất cã các vật liệu ấy được kết dính lại với nhau trong một thời gian không nhất định . Đá vôi có thể được thành lập trong một thời gian rất ngắn và cũng đòi hỏi cã ngàn năm để hóa đá. Người ta chia làm 2 loại chính là đá vôi lưu tính và đá vôi sinh hóa, hóa học. Trong đó người ta còn chia ra nhiều nhóm khác như đá vôi thô ( (còn gọi là đá hỗn giác hay đá vôi dăm kết), đá vôi trứng cá, đá vôi san hô, đá vôi gião thạch, đá vôi vỏ ốc…, còn rất nhiều loại mà không thể kể hết ra đây. Đá vôi mà các anh em nghệ nhân của các tỉnh phía Bắc chọn lọc để chơi đá cảnh, đa số là đá vôi dăm kết. Được tìm thấy rất nhiều tại các tỉnh như: Thanh Hóa, Ninh Bình, Hòa Bình, Sơn La…, và có dạng là những viên độc lập ( các anh em thường gọi là đá mồ côi) có khối lượng từ vài Kg đến vài tấn, nhiều màu sắc và hình dạng khác nhau. Do tính chất cấu tạo là những mảnh dăm kết dính vào nhau và cũng bị mài mòn bởi nước, cùng với số lượng rất lớn, đá vôi xuất hiện với nhiều hình dáng vô cùng đa dạng. Thông thường người ta không xác định độ cứng của đá vì đá là sự tổng hợp của nhiều thành phần khoáng chất khác nhau. Nhưng ở đá vôi, nếu có xác định thì độ cứng tương đối vào khoảng 4 đến 4.5 theo thang độ Mohs. mềm hơn Opal (5 đến 6), với độ cứng tương đối như thế thì chọn để chơi đá cảnh cũng là quá tốt. Người Nhật chơi đá (suiseki) cũng rất phong phú về chất liệu, có nhiều tác phẩm thể hiện cảnh núi non, hang động rất đẹp mà chất liệu chính lại là đá vôi (limestone) là loại đá mà tại các tỉnh miền Bắc nước ta kể trên cũng có rất nhiều. Tại Trung quốc, những viên đá cảnh sân vườn cũng chính là các loại đá vôi và tại nước ta như tại những đền thờ ( Vua Đinh, vua Lê – Ninh Bình), phía ngoài chính điện, người ta trưng bày những viên đá vôi có hình thể rất đẹp, có hồn và rất cổ kính. Trước đây, đã có một số anh em nghệ nhân tại các tỉnh phía Nam cho rằng đá vôi là một loại đá mềm (so với những Basalt, Granite, Opal) và không có giá trị nên không đáng chơi! Thậm chí trong những cuộc thi đá thường xuyên tổ chức tại các tỉnh phía Nam từ trước tới nay thì các loại đá vôi hoàn toàn vắng bóng. Cách nghĩ ấy thật không đúng lắm ! Chơi đá cảnh là chơi về hình dáng và màu sắc, về mặt tạo hình bên ngoài thì đá vôi cũng thật thiên hình vạn trạng hơn hẳn nhiều chủng loại đá khác cũng rất đáng để chúng ta chọn lọc và đưa vào cuộc chơi chung như các anh em nghệ nhân của các tỉnh phía Bắc đã từng và đang chơi.
Gỗ hóa đá hay gỗ hóa thạch ( Petrified wood)
Cùng những loại đá như : Basalt (Ba-zan), Gneiss-Pegmatite ( đá Nai- đá Phiến ma), Chalcedony (Can thạch), Opal (Ô thạch), Agate (Mã não)… , thì gỗ hóa đá cũng được nhiều anh em nghệ nhân tại các tỉnh : Lâm Đồng, Đắc Lắc, Khánh Hòa, Đồng Nai, tp Hồ Chí Minh chọn lọc để đưa vào chơi đá cảnh. Có nhiều tác phẩm đặc sắc và gây được tiếng vang bằng chất liệu nầy. Như các loại đá khác, gỗ hóa đá cũng rất phong phú, đa dạng, nhiều màu sắc. Trong những năm 1995- 1996 gần như lần đầu tiên gỗ hóa đá được tìm thấy rất nhiều tại lòng sông Đồng Nai qua những đợt nạo vét , hút cát, trong thời gian đó thì gỗ hóa đá là một hiện tượng lạ gây được nhiều sự chú ý của nhiều anh em nghệ nhân chơi bonsai và đem chế tác thành những non bộ rất đẹp. Những loại gỗ hóa đá khi khai thác ở sông Đồng nai thì thì thường có màu xám trắng, xốp, mềm hơn những gỗ hóa đá được khai thác sau nầy ở những địa phương khác. Tuy rằng khai thác rất nhiều, nhưng để tìm được một viên có đủ tiêu chuẩn cần thiết để chơi đá cảnh (đá nguyên bản) thì rất rất hiếm. Mãi tới thời gian sau nầy, khi phong trào chơi đá cảnh phát triển mạnh vào những năm (2003-2006), thì tại những tỉnh như Gia Lai, Đắc Lắc các anh em tìm được nhiều những loại gỗ hóa đá với nhiều màu sắc lạ, từ những mảnh vụn nhỏ 1-2 kg đến những thân gỗ rất lớn nặng đến vài tấn và hầu như còn rất nguyên vẹn cùng nhiều ưu điểm vượt trội như cứng chắc hơn, nhiều vân và màu sắc đẹp, có độ trong cao hơn các loại gỗ hóa đá được khai thác ở sông Đồng nai trước đây. Riêng tại Đắc Lắc thì phần nhiều những loại gỗ hóa đá khai thác được đều có màu xám đen đến đen, nặng, lớn và được cắt gọt để làm thành những bộ bàn ghế để trang trí sân vườn. Trước đây khi nói về loại nầy thì các anh em hay gọi là “gỗ hóa thạch”. Cách gọi lẫn lộn giữa từ thuần Việt và từ Hán Việt đôi khi nghe cũng rối rắm! Theo thiển ý, có thể chúng ta sẽ đổi lại cách gọi khác như “ Gỗ hóa đá” là từ thuần Việt có lẽ sẽ dễ dàng hơn. Người Việt Nam chúng ta, trong từ ngữ sữ dụng hàng ngày đôi khi vẫn còn nhiều hạn chế, lắm lúc phải sữ dụng hay vay mượn những từ ngữ nước ngoài để nhằm mục đích cho thuận tiện hơn trong giao tiếp, điều đó cũng phải chấp nhận! Thế nhưng trong chừng mực nào đó, chúng ta cố gắng Việt hóa được nhiều chừng nào vẫn tốt hơn chừng ấy! Nói “ mộc hóa thạch” thì chỉ có một số ít người am hiểu từ Hán Việt thì mới biết và hiểu được, nhưng khi nói “gỗ hóa đá” hay “gỗ thành đá” thì chắc chắn tất cã người Việt Nam từ trẻ đến già đều hiểu được nó là thứ gì! Gỗ hóa đá, trong thuật ngữ chuyên môn của ngành địa chất, người ta gọi hơi dài dòng (dĩ nhiên chính xác hơn!) là “thân gỗ bị silic hóa” , còn trong tiếng Anh được biết với từ “ Petrified wood” hoặc “Silicified wood” mà từ petrified có nghĩa là hóa thạch (hóa đá) hay diễn tả một quá trình hóa thạch (hóa đá) và từ silicified có nghĩa là silic hóa hay hóa thành silic. Và cũng trong chuyên môn, trước đây cũng có một số anh em hay dùng từ tiếng Anh để nói về loại nầy như : “fossil wood” thì cách gọi nầy cũng chưa chính xác cho lắm (nếu không nói là sai !) vì từ “fossil” tuy cũng có nghĩa là hóa thạch (hóa đá) nhưng chỉ nói chung cho tất cã những gì đã hóa thạch (hóa đá), Nghĩa của danh từ nầy là: Các di tích, dấu vết hay vết in của động vật hoặc thực vật đã được bảo tồn trong lớp vỏ trái đất từ một thời gian địa chất hay tiền sử đã qua, nói rộng hơn là một chứng cứ (di chỉ) của cuộc sống đã qua như một mảnh vỏ của một loài nhuyễn thể, một đoạn xương của động vật, một lá hay hoa của một loại thực vật nào đó… Trong thiên nhiên, ngoài những nguyên tố cấu thành vật chất như : calci, sắt, nhôm, kali, magne… thì silic được biết đến với số lượng rất lớn, nhiều hơn hẳn các nguyên tố khác và chỉ đứng sau oxy. Silic có mặt hầu hết ở mọi nơi trên bề mặt trái đất với nhiều trạng thái khác nhau, trong đó có một số hòa tan trong nước. Quá trình hóa thạch (hóa đá) là một quá trình phản ứng hóa học chậm, phức tạp và lâu dài. Để giải thích một cách tường tận thì e rằng trong khuôn khổ tập sách nầy cũng không phù hợp cho lắm. Chỉ xin tóm tắt một cách khái quát để quí độc giả, các anh em nghệ nhân, các nhà sưu tập cùng các bạn bè gần xa có thêm một ít thông tin mà tham khảo. Khi một thân cây bị chết đi và ngã đỗ, chìm trong một vùng nước nào đó. Để hiểu thêm rằng, trong môi trường nước luôn luôn có nhiều oxy hòa tan trong đó. Oxy được biết đến như một tác nhân phân hủy, trong điều kiên bình thường thì hầu hết những thân cây nằm chìm trong nước đều bị mục rữa như hiện tượng mà chúng ta thường thấy trong trong tự nhiên ở chung quanh. Nhiều triệu năm trước, trong bầu khí quyển trên mặt đất, những phân tử oxy hòa tan trong nước lại rất nhiều. Ở đây chúng ta có một hoàn cảnh để hình thành quá trình hóa thạch (hóa đá) rất tốt. Vì lúc ấy trong môi trường nước mà thân gỗ nằm chìm trong đó có ít oxy hòa tan nên thân gỗ rất khó bị mục rữa, ngược lại vì có nhiều silic nên xảy ra hiện tượng thấm dần silic vào bên trong thân gỗ (có một số anh em gọi là tiêm silic). Phản ứng đó người ta gọi là “silic hóa”, Cứ chậm dần, phản ứng ấy tiếp diển trong một thời gian rất lâu ( nhiều triệu năm), cùng những tác nhân khác như : nhiệt độ, áp suất cũng đóng góp một vai trò rất lớn trong quá trình hình thành. Thân gổ bị vùi lấp và càng chìm sâu bởi trọng lực, khi càng sâu thì áp suất và nhiệt độ càng tăng khiến thân gỗ ngày càng như bị nung chín và ép chặt hơn. Yếu tố ngẫu nhiên là một điều thú vị trong việc những màu sắc có được nơi thân gỗ mà thông qua những hoạt động cấu thành trong giai đoạn hình thành, thân gỗ còn nhiễm thêm một số khoáng chất tạo màu khác rồi tạo nên những màu sắc rất độc đáo từ hồng, cam, đỏ, trắng, đen… Có một số ít thì mang những màu xanh rất đẹp (rất hiếm). Do thời gian hình thành và môi trường địa chất từng nơi khác nhau nên độ cứng mềm, trong đục, màu sắc cũng có nhiều đặc điểm khác nhau, có một số rất ít có độ trong (bán trong) như Opal còn được gọi là Opal hóa, đặc điểm của loại nầy có độ cứng tương đối thấp hơn những loại khác , có lẽ trong kết cấu vẫn còn giữ lại một lượng nước tàn dư bên trong thân gỗ Hiện nay, các loại gỗ hóa đá được các anh em nghệ nhân chọn lọc để chơi đá cảnh có nhiều màu sắc rất đẹp mà phần lớn được cắt gọt, đánh bóng và chơi theo dạng đá cảnh chế tác, còn chơi theo dạng đá cảnh nguyên bản thì rất hiếm tìm được những tác phẩm đẹp vì đa số những gỗ hóa đá khi khai thác được đều bị vỡ mẻ và gần như rất ít có những viên có những vết lồi lõm, khuyết mòn tự nhiên như những loại đá khác. Thế nên những tác phẩm bằng chất liệu gỗ hóa đá khi được chọn mà có và đáp ứng được đầy đủ theo những tiêu chuẩn của những yêu cầu khắc khe trong việc chơi theo dạng nguyên bản thì thật sự là những tác phẩm rất có giá trị.
Cát kết , cuội kết
Tiếng Anh là “sandstone”, được ghép từ chữ “sand” có nghĩa là cát và “stone” nghĩ chung là đá . Sandstone là tên gọi chung của loại đá trầm tích mà do cát tạo thành , trong tiếng Việt còn có tên gọi là “đá sa thạch”, theo từ Hán Việt thì ‘sa” nghĩa là cát và “thạch” nghĩa là đá. Là một trong những loại đá được phân nhóm là trầm tích, cát kết và cuội kết hình thành bởi sự gắn kết của nhiều vật liệu vào nhau bằng những loại xi măng thiên nhiên như chất vôi, chất sắt hay đất sét. các vật liệu nầy được thành lập trên đất liền, trong ao hồ cũng như tận ngoài biển. Theo kích thước của hạt gắn kết, người ta chia ra ba loại : 1/ đá kết và đá hỗn giác, 2/ Đá cát hay sa thạch, 3/ Đá bùn hay diệp thạch.Về hình dáng bên ngoài thì các loại nầy cũng dễ phân biệt sự khác nhau về cấu trúc. Cát kết thường mịn, nhẵn do có kết cấu bằng những hạt cát rất nhỏ và cuội kết thì được bằng những hòn sỏi, cuội nhỏ dính chặt vào nhau. Do bởi sự phong hóa, bào mòn tự nhiên nên những cát kết, cuội kết thường có hình dáng chung bên ngoài là dạng khối tròn, đôi khi có dạng mảnh lồi lõm. Về cát kết , vật liệu chính là những hạt cát mịn và xi măng bằng đất sét lẫn silic, còn cuội kết thì được tạo nên bằng những hòn sỏi, cuội nhỏ từ nhiều nguồn đá có chất liệu khác nhau. Các tính chất khác của cát kết và cuội kết như mềm, bở rời hay cứng, dai chắc còn tùy thuộc rất lớn vào những chất kết dính khác và nhiệt độ cũng như áp suất bên dưới mặt đất tạo nên. Cát kết hạt mịn phần lớn được cấu tạo bằng những hạt silic nên có độ cứng tương đối cao, đôi khi trong quá trình hình thành cũng thường gắn kết cùng một số khoáng chất khác có độ cứng thấp hơn, sau đó là giai đoạn xâm thực, bào mòn bởi nước thì những khoáng chất có độ cứng thấp bị mài mòn trước nên tạo ra những vết lồi lõm rất đẹp. Đa số những cát kết tìm thấy được ở Lâm Đồng thường có màu đen và dể bị nhận lầm với những loại Basalt (ba-zan) huyền vũ , còn những vùng ở Đồng Nai thì cát kết thường có màu đỏ nâu vì ở đây vật liệu chính để gắn kết (xi măng thiên nhiên) gồm toàn đất sét và oxid sắt… Đối với các nhà khoa học, riêng về ngành trầm tích học thì cát kết là một đối tượng nghiên cứu rất thú vị, qua đó người ta tìm hiểu được rất nhiều về những hoạt động kiến tạo, môi trường sống hay những minh chứng của những hoạt động theo từng thời kỳ trên bề mặt trái đất. Cuội kết được tìm thấy rất nhiều ở Hàm Thuận (Bình thuận), Ninh Thuận, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Đồng Nai và nhiều nơi khác. Với hình dạng đặc trưng, cuội kết cũng gây được nhiều sự chú ý của các anh em nghệ nhân và các nhà sưu tập đá cảnh. Vì như đã nói, khi kết chặt lại vào nhau rất là ngẫu nhiên, những hòn sỏi, cuội nhỏ bao gồm nhiều kích thước, chất liệu, màu sắc khác nhau trở thành một khối đa dạng từ hình thức đến tính chất, những viên cuội kết tạo nên một tổng thể rất là ngoạn mục và sinh động, đẹp và rất lạ mắt.
Mã Nảo ( Agate )
Một trong ba loại mà chúng ta đang phân biệt thì Agate là một loại tương đối hiếm, đẹp và rất giống với Chalcedony. Tên gọi bằng cách phiên âm là “Mã não” (Hán Việt) . Theo cô La thị Chích và Giáo sư Hoàng Trọng Mai trong giáo trình “ khoáng vật học” của nhà xuất bản Đại học quốc gia , TpHCM vào năm 2004 thì : “Agate là một loại Chalcedony có vân nhiều màu sắc gọi là mã não”, là rất đúng nhưng vẫn còn quá ít, có lẽ các cô, thầy đã ít chú trọng đến loại nầy. Hay như cố giáo sư Trần Kim Thạch, trong ấn phẩm “ căn bản địa chất học” của nhà xuất bản Lửa Thiêng vào năm 1971, trong mục đá trầm tích của chương 14 thì thấy có đề cập đến Chalcedony (can thạch)và Opal (ô thạch) nhưng vẫn không thấy thầy nhắc đến Agate (mã não), Cũng có thể tại Việt Nam chúng ta vào thời điểm đó thì Agate (mã não) rất hiếm thấy hoặc có nhưng rất ít nên đã không được thầy lưu tâm. Tên gọi mã não, theo cách giải thích theo từ Hán Việt của một số anh em khác là “óc ngựa” hay “ bộ óc của con ngựa” vì mã là ngựa và não là óc hay bộ óc. Giải thích như vậy xem ra cũng thú vị. Hình dáng đặc trưng bên ngoài của Agate mà chúng ta thường thấy phần lớn ở dạng cuội, sỏi và đặc biệt khi cắt sâu vào bên trong thì có nhiều màu sắc đặc biệt do những đường vân màu khác nhau có trục đồng tâm tạo nên, về mặt tương quan thì những đường vân mạch tròn đều có trong viên đá cũng hơi giống những đường gân, mạch máu trong bộ óc của con người và các động vật, còn tại sao lại là “mã”(ngựa) chứ không phải là “hầu” (khỉ), “trư” (heo, lợn) hay “long”(rồng) thì đành chịu ! Qua tìm hiểu ở một số tài liệu ở nước ngoài, người ta đã phân lập Agate (mã não) như là một loại riêng biệt cùng những đặc tính về lý, hóa như sau: _ Nhóm : Silicates – tectosilicates _ Hệ tinh thể : Hexagonal – Trigonal (sáu phương và ba phương) _ Thành phần hóa học : SiO2 _ Màu sắc : Không màu, trắng, xám, vàng, nâu, xanh dương, đỏ _ Hình dạng tinh thể : Ẩn tinh _ Độ cứng : 7 _ Cát khai : Không _ Vết vỡ : Dạng vỏ sò _ Ánh kim : Ánh thủy tinh đến ánh nhựa _ Vết vạch : Màu trắng _ Tỉ trọng : 2.7 _ Độ trong : Trong suốt đến mờ đục
Những tính chất kể trên mà người ta đã phân định, xem ra cũng rất giống những tính chất của Chalcedony. Thời gian vừa qua , những sản phẩm trang trí (riêng Agate) của Trung quốc du nhập vào Việt Nam khá nhiều. Có nhiều viên phía bên trong còn chứa cã hốc tinh đám thạch anh với nhiều màu sắc lạ, độc đáo. Những sản phẩm (loại “đá” đó) thì tại Việt Nam chúng ta cũng chưa phát hiện có được. Không hoàn toàn là có nhiều dải màu đồng tâm. Agate còn thể hiện sự biến thiên về màu sắc cùng nhiều hình dạng độc đáo khác. Vậy thì qua những sơ lược vừa rồi, chúng ta nhận biết Agate cùng những tính chất thường có như sau: 1/ có độ trong cao , 2/ có những đãi màu đồng tâm với nhiều màu sắc khác nhau ở bên trong, 3/độ cứng tương đối cao như thạch anh và Chalcedony , 4/ hình thể bên ngoài thường gặp có dạng khối tròn như cuội, sỏi và thể tích không lớn lắm, 5/ đôi khi có những hốc tinh đám thạch anh trong chính giữa khối.